Monday, April 10, 2017

Vì sao người Mỹ thích uống cà phê hơn uống trà?

Nhắc đến tiệc trà, thường người ta nghĩ ngay đến đĩa bánh xinh xắn và những câu chuyện trò lịch thiệp bên hương trà tao nhã. Xong đối với dân Mỹ, cụm từ “tea party” lại làm gợi đến một sự kiện chính trị mang tính biến động lớn trong hành trình lập quốc của họ. Kể từ sau “Boston tea party,” người Mỹ đã chính thức quay lưng với trà và chuyển sang tiêu thụ cà phê. Ở Mỹ hiện giờ, trà vẫn chỉ là thức uống phụ sau cà phê và… nước ngọt. Đầu đuôi của “bữa tiệc trà lịch sử” đó như sau:

Tranh thạch bản của Nathaniel Currier, tả cảnh phá hủy 342 rương đựng trà ở bến cảng Boston, 1846

Chỉ chưa đầy 300 năm trước đây thôi, nước Mỹ chưa phải là một cường quốc hùng mạnh như ta thấy ngày nay. Vào khoảng những năm đầu thập niên 1770, Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ không tồn tại mà mới chỉ có mười ba thuộc địa nho nhỏ của Anh chạy dọc bờ Đông nước Mỹ hiện giờ. Để tiện so sánh có thể nhìn hình dưới đây (phần tô màu đỏ):



Những thuộc địa đầu tiên đều khá giàu có nhờ buôn bán, trồng trọt, và nô lệ. Thế nhưng người dân thuộc địa càng lúc càng không vừa lòng với “mẫu quốc”. Dân thuộc địa không có ai là đại biểu trong quốc hội Anh, xong họ vẫn phải đóng thuế. Với tư cách là công dân nước Anh, những người dân thuộc địa cảm thấy thật bất công khi phải “cống nạp” cho một chính phủ không đại diện cho lợi ích của họ. Khẩu hiệu của dân thuộc địa lúc bấy giờ là: “No taxation without representation,” đã không có tiếng nói thì không thuế má gì cả. Các đạo luật Sugar Act, Stamp Act, và Townshend Revenue Act càng đào thêm hố sâu ngăn cách giữa các thuộc địa và Quốc hội Anh.

Chân dung John Hancock của John Singleton Copley

Thời ấy, John Hancock là một trong những công dân giàu có nhất ở tiểu bang Massachusetts, đồng thời là một nhà chính trị có tầm ảnh hưởng quan trọng. Vào tháng sáu, 1768, tàu Liberty của John Hancock bị hải quan bắt giữ vì nghi nhập lậu rượu mà không đóng thuế, phạm vào Townsend Revenue Act. Nhờ sự bào chữa của luật sư John Adams (nhớ tên ông này nhé.) John Hancock được miễn tội, song vụ việc này đã làm dấy lên một chuỗi các cuộc biểu tình chống đế quốc Anh. Sự kiện này cũng khiến John Hancock càng được lòng dân Massachusetts, tạo nền tảng cho ông dẫn dắt Boston trong cuộc cách mạng giành độc lập sau này. Rồi John Hancock sẽ trở thành người đầu tiên kí tên vào bản Tuyên Ngôn Độc Lập nước Mỹ, còn luật sư John Adams chính là người giúp soạn thảo nó. Cả hai ông John ấy đều nằm trong hàng ngũ các ông tổ của đất nước (Founding Fathers.)

Tòa nhà John Hancock ở Boston

Cùng lúc đó, những người gốc Anh di cư sang thuộc địa vẫn coi trà là một nhu yếu phẩm quan trọng, bởi họ vẫn chưa bỏ được thói quen uống trà. Một công ty xuất khẩu hùng mạnh có tên Đông Ấn (East India Company) thì lại đang lâm vào tình trạng tài chính kiệt quệ, bởi thuế ở khu vực thuộc địa quá cao làm đẩy giá trà lên, dẫn đến không ai thèm mua trà của họ nữa. Dân sống ở thuộc địa thành ra toàn phải mua trà lậu. Công ty Đông Ấn liền cầu cứu Quốc hội Anh. Quốc hội Anh bèn hỗ trợ công ty này bằng cách đề ra luật Tea Act năm 1773, cho phép công ty Đông Ấn được độc quyền bán trà ở thuộc địa với thuế nhẹ, lại được bán thẳng cho người dân nên giá rất rẻ.

Bản in Tea Act đầu tiên năm 1773

Những tưởng người dân sẽ vui mừng vì giá trà nay rẻ chỉ bằng một nửa lúc trước, xong thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Các lái buôn thì tiếc lợi lộc sắp mất trắng, các nhà cấp tiến tự xưng là Sons of Liberty (“Những người con của tự do”,) hay Whigs, thì giận vì tình trạng độc quyền, thiên vị. Hai nhóm này cùng bàn bạc tổ chức chống lại công ty Đông Ấn. Một chiến dịch nâng cao tinh thần đấu tranh trong nhân dân bắt đầu. Kết quả là tại tất cả các nơi khác ngoại trừ vùng Massachusetts, những lô hàng chở trà qua Đại Tây Dương đều bị gửi trả lại. Những người nhận hàng cũng bỏ việc để bày tỏ thái độ phản đối chính sách mới. Nhưng thống đốc Hutchinson nhất quyết không chịu thua trước áp lực của dân thuộc địa. Khi tàu Dartmouth cập cảng Boston vào tháng mười một, Samuel Adams, thủ lĩnh Sons of Liberty, đồng thời là anh họ của luật sư John Adams, hạ lệnh ngăn không cho tàu được dỡ hàng lên bờ mà phải quay lại Anh ngay. Trong khi đó thống đốc Hutchinson lại không cho phép tàu được rời đi mà chưa nộp thuế. Ông ta còn thuyết phục hai con trai kiêm chức nhận hàng của mình đừng chùn bước. Tàu Dartmouth thế là lâm vào cảnh “đi thì dở, ở cũng không xong.” Còn chưa giải quyết được thì lại thêm hai chiếc tàu nữa, Beaver và Eleanor cập cảng.

Chân dung Samuel Adams của John Singleton Copley

Theo luật Anh, nếu quá hai mươi ngày mà tàu không chịu nộp thuế thì sẽ phải phạt, tịch thu toàn bộ hàng hóa. Hạn chót đã tới. Đêm ngày 16 tháng 12 năm 1773, một nhóm người cải trang thành người da đỏ Mohawk đột nhập lên ba con tàu đang thả neo ở biển Boston và đổ toàn bộ 342 rương trà xuống biển. Ba con tàu Darthmouth, Eleanor, và Beaver không phải tàu Anh mà là tài sản của thuộc địa, do đó không bị phá phách tẹo nào. Chỉ có trà Anh là có tội mà thôi! Ngoài ra việc những người tham gia Tea party cải trang thành người da đỏ còn nói lên rằng, từ giây phút đó, quân nổi dậy thuộc địa đã tự đồng nhất với người Mỹ bản địa, quay lưng lại với đế quốc Anh. Việc Samuel Adams có trực tiếp nhúng tay vào việc hủy trà hay không vẫn còn chưa rõ, song ông ngay lập tức đứng về phía quần chúng phạm luật và biện hộ rằng đó là một hành động hợp với quyền họ đáng được hưởng.
Cảnh người dân đổ trà xuống biển để chặn khả năng có người lén đưa trà lên mặt đất bán, 1789

Sự kiện này như phát súng khai mào cuộc chiến giữa đế quốc và thuộc địa. Đế quốc Anh trả đũa bằng cách đóng cảng Boston và đề ra thêm nhiều đạo luật xiết chặt lấy thuộc địa. Tức nước vỡ bờ, vào năm 1775, cuộc Cách Mạng nổ ra. Năm 1776, mười ba bang hợp nhất thành Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Sau sự kiện “Tiệc trà Boston,” luật sư John Adams bắt đầu cổ súy cho việc từ bỏ trà, coi uống trà là “không yêu nước.” Kể từ đó người dân Mỹ chỉ ưa chuộng cafe. Ông John Adams này sẽ trở thành tổng thống thứ hai của nước Mỹ, tiếp nối Washington. Công ty Bia Boston thì vinh danh ông Samuel Adams – anh họ ông – bằng cách đặt tên Samuel Adams cho một loại bia.

Bia “ái quốc” mang nhãn hiệu Samuel Adams
Từ đó, “Boston Tea Party” trở thành một cột mốc đáng nhớ trong hành trình giành độc lập của nước Mỹ. Hai chiếc rương đựng chè từ năm 1773 vẫn được lưu giữ tại The Boston Tea Party Museum cùng các tài liệu có liên quan khác. Đảng chính trị Tea Party do Ron Paul dẫn đầu cũng được đặt tên chơi chữ theo sự kiện quan trọng trên.

*

Đọc đến đây có người thắc mắc, hay là tại người Mỹ sẵn không thích trà nên mới có vụ đổ trà? Xin thưa rằng, tuy trà là thức uống quốc hồn quốc túy của người Anh, nhưng phải đến thế kỉ 17 thời nhà Thanh, trà mới từ Trung Quốc chạy sang đế quốc Anh. Charles II là ông vua Anh đầu tiên được uống trà, chính là nhờ công ty Đông Ấn. Dân ở đế quốc và thuộc địa đều thích uống trà cả. Và sau sự biến nêu trong bài này cafe mới lên ngôi ở Mỹ. Tổng thống John Adams trong thư gửi cho bà vợ Abigail có kể lại câu chuyện: Sau một chuyến công tác dài mệt mỏi ít nhất 35 dặm, ông xin bà chủ nhà một tách trà, với điều kiện trà được nhập lậu “tử tế” và không chịu thuế Anh. Nhưng bà chủ nhà bảo là dân mình ở đây đồng lòng bỏ trà rồi, tôi chỉ cho ông uống cafe được thôi. Kể từ đó ông Adams ngày nào cũng làm một cách cafe. Kết luận là đã yêu nước thì hãy cai trà càng sớm càng tốt!

*

No comments:

Post a Comment